Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu, năm 2017, nông thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 1,73 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2016, trong đó rau quả tăng mạnh đạt 69,3%.

Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản luôn tăng bình quân 2 con số trong thời gian gần đây, tôm vẫn là mặt hàng tăng trưởng tốt nhất, chiếm 25% thị phần xuất khẩu vào Nhật Bản, đặc biệt với tôm sơ chế lột vỏ để đuôi và tôm để vỏ nguyên liệu đông lạnh.

Tương tự, các sản phẩm cá ngừ đóng hộp, mực và bạch tuộc ướp lạnh hoặc đông lạnh cũng có tiềm năng xuất khẩu tốt.

Đối với các mặt hàng rau quả, Nhật Bản đang là thị trường tiêu thụ lớn thứ 3 của Việt Nam sau Trung Quốc và Mỹ. Nhu cầu của họ với các loại trái cây nhiệt đới như chuối, thanh long, xoài, vải, măng cụt ngày càng lớn. Tuy nhiên, trừ thanh long còn dư địa tăng trưởng tốt do đáp ứng tốt về thị hiếu và chất lượng, các loại trái cây tươi khác đều kém cạnh tranh so với các nước về giá do cước phí vận chuyển hàng không và chi phí bảo quản lạnh của Việt Nam cao hơn.

Trong 5 tháng đầu năm 2018, từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, cơ cấu xuất khẩu rau quả của Việt Nam cũng không có nhiều thay đổi, Nhật vẫn là một trong 3 thị trường lớn nhất cùng kim nhập xuất khẩu gần 1,7 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2017.

Thực phẩm khô Việt Nam đang là xu hướng tiêu dùng tại Nhật Bản

Theo nhận định của ông Tetsuichiro Tomihari – Giám đốc mảng Triển lãm thuộc Hiệp hội Siêu thị quốc gia Nhật Bản (NSAJ), ngoài những mặt hàng truyền thống như trái cây, rau củ, thủy sản đông lạnh… thì các loại sản phẩm khô như phở, bún, miến, mì ăn liền và các loại gia vị như tiêu, ớt, nước mắm đang rất được có xuất xứ từ Việt Nam đang rất được người Nhật ưa chuộng.

Lý do khiến các sản phẩm khô ăn liền của Việt Nam được ưu ái là bởi nó phù hợp với xu thế tiêu dùng của người dùng Nhật ở thời điểm hiện tại.

Từ một nghiên cứu gần đây của NSAJ cho thấy, hiện tại, Nhật Bản đang hình thành 2 xu hướng tiêu dùng chính: đề cao chất lượng hoặc đề cao số lượng.

Nguyên nhân cho sự phân cực này là do sự chênh lệch thu nhập ngày càng cao bởi sự gia tăng tỷ lệ người có việc làm không thường xuyên, hiện đã ở mức 37,5% cộng với dân số Nhật Bản đang lão hóa với tốc độ nhanh chóng, nhiều người già (chiếm 26,6%), ít trẻ con (chiếm 12,6%).

Nhóm đề cao chất lượng là những người có thu nhập cao và những người già có tài sản tích lũy muốn bảo vệ sức khỏe nên chỉ ăn thực phẩm chất lượng cao nhất như đồ organic, thực phẩm không chất phụ gia và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Nhóm đề cao số lượng là những người trẻ có thu nhập thấp, ưu tiên đầu tiên của họ là giá rẻ, số lượng nhiều rồi mới đến sức khỏe.

Những sản phẩm khô như miến, phở, bún của Việt Nam hoàn hảo cho nhóm người thứ hai, bởi ngoài giá rẻ nó còn rất tốt cho sức khỏe cũng như việc giữ dáng bởi trong khi hầu hết mì dạng sợi ở Nhật đều làm từ bột mì thì Việt Nam thường được sản xuất từ bột gạo. Thêm một lưu ý nữa, người trẻ Nhật thường thích mua những đồ ăn liền như phở hoặc mì gói với số lượng nhiều một lần, tức là thích mua combo nhiều gói hơn là đơn lẻ.

Bên cạnh đó, những sản phẩm trên còn phù hợp với một xu thế khác trong cơ cấu hộ gia đình Nhật, đó là hộ đơn tăng lên đồng nghĩa với nhiều người không muốn nấu ăn chỉ thích mua đồ ăn tiện lợi bên ngoài, trung bình chỉ hơn 30% người dưới 40 tuổi nấu ăn mỗi ngày, hơn 60% chỉ nấu 2 ngày/tuần.

Hiện tại, hàng Việt chỉ mới khai thác được xu hướng đề cao số lượng và vẫn còn để ngỏ xu hướng đề cao số lượng do những sản phẩm tươi của Việt Nam vẫn chưa đạt chuẩn chất lượng cao của người Nhật.

Ví dụ: theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu cá ngừ sang Nhật Bản đạt 7,7 triệu USD, tăng 36% so với cùng kỳ 2017, nhưng sản phẩm xuất khẩu chủ lực chủ yếu vẫn là thăn/phi lê đông lạnh chứ không phải cá tươi và chỉ chiếm 3% thị phần, trong khi Thái Lan chiếm 58%, Indonesia là 19%.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *